Tràn dịch màng ngoài tim là gì? Các công bố khoa học về Tràn dịch màng ngoài tim

Tràn dịch màng ngoài tim, hay còn gọi là thủy tục màng ngoài tim, là một tình trạng mà có sự tích tụ lượng lớn chất lỏng trong màng ngoài tim. Màng ngoài tim là...

Tràn dịch màng ngoài tim, hay còn gọi là thủy tục màng ngoài tim, là một tình trạng mà có sự tích tụ lượng lớn chất lỏng trong màng ngoài tim. Màng ngoài tim là một lớp mỏng bao phủ bên ngoài tim và bên trong túi trái tim, giúp giữ cho tim không bị chấn động quá mạnh và không chèn ép vào các cơ quan lân cận trong ngực.

Tràn dịch màng ngoài tim có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, bao gồm viêm màng tim, tổn thương do chấn thương, nhiễm trùng, bệnh tật hoặc các bệnh khác như ung thư. Triệu chứng của tràn dịch màng ngoài tim có thể bao gồm đau ngực, khó thở, mệt mỏi và sự sưng phù trong khu vực ngực.

Để chẩn đoán và điều trị tràn dịch màng ngoài tim, bác sĩ thường sẽ tiến hành kiểm tra và siêu âm tim để xác định lượng dịch tồn tại. Quá trình điều trị có thể bao gồm việc gây tê cản dịch (thu dung) hoặc xả dịch (thủy trụ dịch) để giảm lượng chất lỏng tích tụ trong màng ngoài tim.
Dưới đây là thông tin chi tiết hơn về tràn dịch màng ngoài tim:

1. Nguyên nhân: Tràn dịch màng ngoài tim có thể do nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân phổ biến nhất là viêm màng tim, còn được gọi là viêm màng tim ngoại (pericarditis). Nguyên nhân khác bao gồm:

- Tổn thương do chấn thương: Ví dụ như chấn thương ngực do tai nạn giao thông hoặc tai nạn lao động có thể gây tổn thương màng ngoài tim.
- Nhiễm trùng: Các bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, viêm nha chu, viêm gan C, bệnh tăng sinh vi khuẩn gây bệnh (tuberculosis) có thể lan đến màng ngoài tim và gây viêm, dẫn đến tràn dịch.
- Bệnh tật hoặc các bệnh khác: Bệnh lupus ban đỏ, bệnh vẩy nến, bệnh Dự trù (sarcoidosis), ung thư tim, hội chứng Dressler (một biến chứng sau cơn đau tim), bệnh trĩ (pericardial varices), bệnh tim bẩm sinh, v.v.

2. Triệu chứng: Triệu chứng của tràn dịch màng ngoài tim thường gồm:

- Đau ngực: Có thể là đau nhức ngực hoặc đau nhọn tùy theo mức độ tràn dịch và sự chèn ép lên tim.
- Khó thở: Một triệu chứng quan trọng của tràn dịch màng ngoài tim do áp lực của dịch gây chèn ép các cơ phổi và gây khó thở.
- Mệt mỏi: Do tim không hoạt động hiệu quả khi có sự tích tụ dịch quá nhiều trong màng ngoài tim.
- Sự sưng phù trong khu vực ngực: Có thể thấy sự sưng phù hoặc cảm giác căng thẳng trong khu vực ngực.

3. Chẩn đoán và điều trị: Chẩn đoán tràn dịch màng ngoài tim thường dựa vào sự kết hợp giữa triệu chứng, tiến sĩ và xét nghiệm. Các phương pháp chẩn đoán có thể bao gồm:

- Siêu âm tim: Quan sát hình ảnh chi tiết của tim và màng ngoài tim để xác định lượng dịch.
- Xét nghiệm máu: Nhằm kiểm tra các chỉ số viêm nhiễm và các yếu tố tụ cầu máu.
- X-quang ngực: Hỗ trợ xem xét trạng thái hình ảnh tim và phổi.
- Điện tâm đồ (EKG): Giúp phát hiện các vấn đề về nhịp tim.

Để điều trị tràn dịch màng ngoài tim, các phương pháp sau có thể được sử dụng:

- Thu dung: Sử dụng kim tiêm để lấy chất lỏng trong màng ngoài tim, giúp giảm áp lực chèn ép lên tim và phổi.
- Thủy trụ dịch: Đặt ống thông qua màng ngoài tim để giúp dịch thoát ra bên ngoài.
- Điều trị nguyên nhân gốc: Điều trị các nguyên nhân gây ra tràn dịch màng ngoài tim (ví dụ như điều trị nhiễm trùng, viêm màng tim hoặc ung thư).

Vì vậy, quan trọng là tham khảo ý kiến ​​bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị đúng cách cho tràn dịch màng ngoài tim.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tràn dịch màng ngoài tim":

Các yếu tố nguy cơ của tràn dịch màng ngoài tim cần dẫn lưu ở bệnh nhân sau phẫu thuật tim hở
Mục tiêu: xác định các yếu tố nguy cơ của tràn dịch màng ngoài tim cần dẫn lưu ở bệnh nhân sau phẫu thuật tim hở có mở màng ngoài tim. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 374 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên được phẫu thuật (PT) tim hở có mở màng ngoài tim tại Viện Tim TPHCM từ  01/07/2019 đến 17/12/2019. Tất cả đều được theo dõi 6 tháng kể từ lúc phẫu thuật. Nghiên cứu đoàn hệ hồi, tiến cứu. Kết quả: Kết quả: tuổi trung bình: 50,3 ± 12,7, nam 46,3%, nữ 53,7%. Tràn dịch màng ngoài tim (TDMNT) nhiều cần dẫn lưu là 8,8%, gồm chèn ép tim (CET) 3,5% và có khả năng CET 5,3%. Thời điểm dẫn lưu trung bình là ngày hậu phẫu thứ 20,2 ± 10,8. Phân tích đơn biến cho thấy có 5 yếu tố nguy cơ có liên quan với TDMNT cần dẫn lưu sau PT tim hở: số lượng tiểu cầu trước PT, rung nhĩ mới sau PT, nhóm NYHA (New York Heart Assocition) trước PT, INR tuần 2 và INR tuần 4 sau PT. Phân tích đa biến cho thấy có 4 yếu tố nguy cơ độc lập của TDMNT cần dẫn lưu sau PT tim hở: số lượng tiểu cầu trước PT, nhóm NYHA trước PT, thời gian rút ống dẫn lưu màng tim và chỉ số INR tuần 2 sau PT. Kết luận: sau PT tim hở, TDMNT nhiều cần dẫn lưu là 8,8%. Số lượng tiểu cầu trước PT, nhóm NYHA trước PT, thời gian rút ống dẫn lưu màng tim và chỉ số INR tuần 2 sau PT là các yếu tố nguy cơ độc lập của TDMNT cần dẫn lưu.
#: Tràn dịch màng ngoài tim #chèn ép tim #dẫn lưu #yếu tố nguy cơ
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Tràn dịch màng ngoài tim là một bệnh lý tim mạch thường gặp trên lâm sàng, có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và chủng tộc khác nhau. Biểu hiện lâm sàng của tràn dịch màng ngoài tim rất thay đổi, từ tràn dịch mức độ nhẹ không triệu chứng đến chèn ép tim cấp. Các dữ liệu liên quan đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim tại Việt Nam còn hạn chế. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân bị tràn dịch màng ngoài tim tại bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả, hồi cứu dựa trên hồ sơ. Nghiên cứu gồm 248 bệnh nhân được chẩn đoán xác định tràn dịch màng ngoài tim điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong 10 năm từ 2010 – 2020. Kết quả: Trong 10 năm, có 285 bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim, trong đó 248 bệnh nhân thoả tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 52,3 ± 18, tỉ lệ nam:nữ là 1,61:1. Khó thở là triệu chứng thường gặp nhất (77%), tiếp theo là đau ngực (11%) và sốt (4%). Có 7,7% bệnh nhân có tụt huyết áp lúc nhập viện, tĩnh mạch cổ nổi là 11,3%, tiếng tim mờ là 18,6% và mạch nghịch là 1,6%. Tràn dịch màng ngoài tim toàn thể chiếm 95,2%, tràn dịch lượng nhiều chiếm 77,4% và 23,8% bệnh nhân có biểu hiện chèn ép tim trên siêu âm tim. Bất thường trên điện tâm đồ có 41,5% có điện thế thấp, 2% có so le điện thế. Có 248 bệnh nhân được thực hiện chọc dịch màng tim, kết quả 98% là dịch tiết. Kết quả tế bào học dịch màng ngoài tim với sự hiện diện của tế bào ác tính chiếm 12,7%. Cấy dịch màng ngoài tim dương tính ở 6/232 mẫu, 3 mẫu cấy dương với Staphylococcus aureus. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy triệu chứng thường gặp nhất của tràn dịch màng ngoài tim là khó thở. Tiếng tim mờ, tụt huyết áp và tĩnh mạch cổ nổi ít được ghi nhận trong nghiên cứu. Hầu hết tràn dịch màng ngoài tim là toàn thể, lượng nhiều trên siêu âm tim. Dịch màng ngoài tim đa số là dịch tiết, tỉ lệ cấy dương rất thấp, tác nhân được ghi nhận nhiều nhất là Staphylococcus aureus.
#Tràn dịch màng ngoài tim #khó thở #chèn ép tim
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT CỤC NỘI VIỆN CỦA BỆNH LÝ TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Nguyên nhân của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim rất đa dạng. Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân và kết cục nội viện của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim. Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan nguyên nhân và kết cục nội viện ở  bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim. Đối tượng: Những bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim được chẩn đoán tại bệnh viện Chợ Rẫy trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2020. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả, hồi cứu. Kết quả: Trong 10 năm, thu nhận 285 bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim, trong đó có 248 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình dân số nghiên cứu là 52,3 ± 18,0, trong đó nam giới có 153 bệnh nhân, chiếm 61,7%. Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất lần lượt là do ác tính (48,4%), lao (21,0%), vô căn (10,5%) và tự miễn (7,3%), trong đó nguyên nhân do nhiễm trùng (viêm mủ màng ngoài tim) ít gặp với 4,8%. Trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính, nguyên nhân thường gặp là ung thư phổi (52,5%), u trung thất xâm lấn (13,3%) và có 20,8% trường hợp chưa tìm được ổ nguyên phát. Chỉ ghi nhận 25,8% bệnh nhân có tiền căn bệnh lý ác tính trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính. Tỉ lệ tế bào học dịch màng tim bất thường gặp trong nguyên nhân ác tính là 24,5%. Màu sắc đại thể chủ yếu là đỏ máu (64,4%), có sự khác biệt giữa hai nhóm nguyên nhân (p=0,0001). Kết cục xấu nội viện gồm tử vong hoặc nặng xin về giữa hai nhóm nguyên nhân ác tính và không do ác tính không có sự khác biệt (p = 0,12), nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp trong nhóm ác tính cao hơn nhóm không do ác tính với tỉ lệ lần lượt 30% và 18,0%, p = 0,026. Kết luận: Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất là do ác tính, trong đó ung thư phổi chiếm ưu thế. Tuy kết cục nội viện là không khác biệt nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp cao hơn ở nhóm ác tính so với nhóm không ác tính.
#tràn dịch màng ngoài tim #ác tính #lao
CA LÂM SÀNG: TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM Ở BỆNH NHÂN SAU MẮC COVID-19
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Trong quá trình khám bệnh hậu COVID-19, chúng tôi đã ghi nhận 3 trường hợp có tràn dịch màng ngoài tim số lượng ít, được xác định trên siêu âm – Doppler tim ở BN sau mắc COVID-19 thể nhẹ, điều trị tại nhà, và những BN này đã tiêm đủ liều vaccine. 2 BN không có bệnh lý nền, 1 BN có bệnh lý tăng huyết áp trước đó, điều trị thường xuyên. Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân là khó thở, hụt hơi, tức ngực, hồi hộp trống ngực, 2 trong 3 BN có nhịp tim tăng nhẹ trong đó 1 BN có ngoại tâm thu. Cận lâm sàng cho thấy 1 BN có ngoại tâm thu thất, còn lại cả 3 BN không thấy bất thường khác trên điện tâm đồ và X quang tim phổi. Xét nghiệm máu không có bất thường về số lượng bạch cầu, tiểu cầu, men tim, tuy nhiên có tăng nhẹ CRP ở cả 3 trường hợp. Kết quả siêu âm tim có dịch màng ngoài tim số lượng ít, từ 6 – 10mm tập trung chủ yếu ở thành trước thất phải và vùng mỏm tim. Cả 3 BN đều hồi phục với phác đồ điều trị triệu chứng thông thường, không bao gồm Colchicin, NSAID hay Corticoid.
#Tràn dịch màng ngoài tim #COVID-19 #bệnh nhân
Tự sát bằng khoan điện Dịch bởi AI
Forensic Science, Medicine and Pathology - Tập 2 - Trang 273-276 - 2006
Bài báo mô tả một trường hợp tự sát bằng công cụ khoan điện với hai điểm xâm nhập ở mặt trước của lồng ngực. Nguyên nhân tử vong là do chấn thương xuyên thủng tim gây ra tràn dịch màng ngoài tim, kết hợp với chảy máu vào khoang ngực do thủng phổi trái. Tình trạng tâm lý của bệnh nhân cho thấy có dấu hiệu trầm cảm kéo dài, một phần với các triệu chứng tâm thần.
#tự sát #khoan điện #chấn thương tim #tràn dịch màng ngoài tim #trầm cảm #triệu chứng tâm thần
Hiệu quả và an toàn của cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi ở bệnh nhân có tràn dịch màng ngoài tim: một loạt trường hợp tại trung tâm đơn lẻ Dịch bởi AI
Journal of Cardiothoracic Surgery - Tập 11 - Trang 1-5 - 2016
Tràn dịch màng ngoài tim (PE) là một phát hiện phổ biến ở những bệnh nhân có suy tim mãn tính, đã trải qua phẫu thuật tim, hoặc mắc một số bệnh lành tính và ác tính khác. PE có mức độ từ nhẹ, không triệu chứng đến tràn dịch màng ngoài tim đè ép. Mặc dù cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi (TPW) là một lựa chọn phẫu thuật xâm lấn tối thiểu cho bệnh nhân có PE, nhưng có rất ít dữ liệu công bố về kết quả của TPW trong điều trị PE. Chúng tôi đã điều tra đóng góp của TPW trong điều trị PE tái phát hoặc khó dẫn lưu qua da. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu hồ sơ bệnh án về các chỉ định TPW bao gồm dữ liệu về các biến cụ thể trước phẫu thuật, trong phẫu thuật, và sau phẫu thuật; tỷ lệ biến chứng; tái phát; và tỷ lệ sống sót. Mười bốn bệnh nhân liên tiếp có PE tái phát hoặc khó dẫn lưu qua da đã được tham gia nghiên cứu này sau khi đã được điều trị bằng TPW. Các trocar để đưa nội soi và dụng cụ phẫu thuật được thông qua hai hoặc ba vết rạch. Phẫu thuật mở lồng ngực cũng được thực hiện ở những bệnh nhân có máu trong màng ngoài tim và tràn dịch fibrin khu trú. Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá qua phỏng vấn trực tiếp, siêu âm tim qua thành ngực (TTE), và chụp X quang ngực 3–6 tháng sau khi thực hiện TPW. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 70 năm (khoảng từ 28–83 năm). Thời gian phẫu thuật là 72,1 ± 29,5 phút. Sáu bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật tim hở trong tháng trước khi họ đến với triệu chứng PE. Không có biến chứng nào xảy ra trong và sau phẫu thuật, mặc dù PE đã tái phát ở một bệnh nhân. Hai bệnh nhân đã tử vong do bệnh ác tính vài tháng sau TPW. Tỷ lệ tim phổi (được xác định trên phim chụp X quang ngực) và tỷ lệ phân suất tống máu (được xác định bằng TTE) đã cải thiện trong các lần theo dõi 3 và 6 tháng (p < 0.0001 và p = 0.012, tương ứng). Một số bệnh nhân có thể ngừng sử dụng thuốc lợi tiểu sau thủ tục, theo đánh giá của bác sĩ tim mạch dựa trên cải thiện triệu chứng, chụp X quang ngực, và kết quả TTE. Đối với những bệnh nhân có PE tái phát hoặc khó dẫn lưu qua da, TPW là một phương pháp phẫu thuật hiệu quả và an toàn về mặt chức năng tim và các kết quả hình ảnh.
#tràn dịch màng ngoài tim #cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi #phẫu thuật xâm lấn tối thiểu #siêu âm tim qua thành ngực #kỹ thuật điều trị
Tràn dịch màng ngoài tim và viêm động mạch tế bào khổng lồ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 34 - Trang 1465-1469 - 2014
Tràn dịch màng ngoài tim ở bệnh nhân viêm động mạch tế bào khổng lồ đã được mô tả trong các báo cáo trường hợp. Tần suất chính xác của biểu hiện này vẫn chưa được biết rõ. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tần suất và đặc điểm của tràn dịch màng ngoài tim ở bệnh nhân viêm động mạch tế bào khổng lồ. Dữ liệu hồi cứu đã được thu thập từ 114 bệnh nhân tại một bệnh viện duy nhất, nơi chẩn đoán viêm động mạch tế bào khổng lồ trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1999 đến tháng 7 năm 2013. Tràn dịch màng ngoài tim được phát hiện ở bốn bệnh nhân (3,5%, khoảng tin cậy 95% là 1–8,7). Trong ba trường hợp, tràn dịch màng ngoài tim đã có mặt ngay từ khi khởi phát và không có triệu chứng. Trong một trường hợp, tràn dịch màng ngoài tim có liên quan đến viêm động mạch chủ và được chẩn đoán sau 6 tháng qua CT ngực do tái phát bệnh khi giảm liều corticosteroid. Tiên lượng là tốt ở tất cả các trường hợp. Nghiên cứu hiện tại xác nhận rằng tràn dịch màng ngoài tim có thể xảy ra ở bệnh nhân viêm động mạch tế bào khổng lồ. Tuy nhiên, tràn dịch màng ngoài tim là một biểu hiện hiếm gặp của viêm động mạch tế bào khổng lồ. Tiến triển lâm sàng của tràn dịch màng ngoài tim trong bối cảnh viêm động mạch tế bào khổng lồ thường là nhẹ và hiếm khi có triệu chứng. Việc nhận biết biểu hiện này có thể góp phần vào việc chẩn đoán sớm bệnh.
#tràn dịch màng ngoài tim #viêm động mạch tế bào khổng lồ #tiên lượng #biểu hiện lâm sàng
Một trường hợp viêm giáp Riedel với dịch tràn màng phổi và dịch tràn màng ngoài tim Dịch bởi AI
Endocrine - Tập 35 - Trang 297-301 - 2009
Viêm giáp Riedel (RT) là một loại viêm giáp mãn tính hiếm gặp có nguyên nhân chưa được xác định và phương pháp điều trị rõ ràng. Bệnh có thể liên quan đến xơ hóa trong khoang sau phúc mạc, trung thất, hốc mắt, và gan. Các triệu chứng chủ yếu xuất hiện do chèn ép các cấu trúc lân cận. Thường thì cần phẫu thuật để chẩn đoán chính xác và giảm áp lực nhằm làm giảm triệu chứng. Glucocorticoid và tamoxifen là các loại thuốc thường được sử dụng trong điều trị dược lý. Chúng tôi xin trình bày sự phát triển của dịch tràn màng phổi và dịch tràn màng ngoài tim trong quá trình lâm sàng của một trường hợp RT. Một bệnh nhân nữ 39 tuổi với triệu chứng chèn ép cổ được nhập viện. Sau khi thực hiện phẫu thuật giảm áp là một cuộc cắt thùy giáp, RT được chẩn đoán. Bệnh nhân phản ứng tốt với liệu pháp glucocorticoid sau phẫu thuật. Tuy nhiên, triệu chứng tái diễn ngay sau khi ngừng glucocorticoid và tình trạng bệnh mở rộng vào trung thất. Tamoxifen được bắt đầu và khối u ở cổ và trung thất giảm đi, triệu chứng của cô ấy có sự cải thiện đáng kể trong hơn 6 tháng. Tuy nhiên, cô ấy đã được nhập viện lại vì khó thở nặng và đau ngực. Khám xét thêm cho thấy có dịch tràn màng phổi tiết dịch và khoang ngoài tim, cùng với sự phình to của trung thất. Đánh giá kỹ lưỡng các dịch tiết của bệnh nhân không phát hiện bất kỳ nguyên nhân gây bệnh đặc hiệu nào. Bệnh nhân không còn triệu chứng với sự giảm đáng kể khối u mô mềm và không có dịch tràn, và đã được điều trị thành công bằng colchicine, azathioprine, và glucocorticoids. Theo những gì chúng tôi biết, đây là trường hợp đầu tiên được báo cáo trong tài liệu như một RT với dịch tràn màng phổi và dịch tràn màng ngoài tim.
#viêm giáp Riedel #dịch tràn màng phổi #dịch tràn màng ngoài tim #glucocorticoid #tamoxifen
Tim nhầm vị trí một catheter tĩnh mạch trung tâm dẫn đến tràn dịch màng ngoài tim gây tử vong Dịch bởi AI
Rechtsmedizin - Tập 9 - Trang 62-64 - 1999
Bài báo này trình bày trường hợp một phụ nữ 81 tuổi, người đã qua đời 18 giờ sau khi đặt một catheter tĩnh mạch trung tâm để nuôi dưỡng parenteral do hiện tượng tràn dịch màng ngoài tim kết hợp với việc đặt catheter sai vị trí gây thủng tâm thất phải. Theo các kết quả lâm sàng và mô học, đây là hiện tượng thủng nguyên phát trong lúc đưa catheter vào. Việc kiểm tra vị trí đầu catheter không được thực hiện, và điều trị khẩn cấp không diễn ra mặc dù có những dấu hiệu lâm sàng cho thấy có biến chứng.
#catheter tĩnh mạch trung tâm #tràn dịch màng ngoài tim #thủng tâm thất #nuôi dưỡng parenteral
Tràn dịch màng ngoài tim sau khi đặt van động mạch chủ qua da: Đánh giá bằng siêu âm tim và chụp cắt lớp vi tính nhiều dãy Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 31 - Trang 37-43 - 2014
Mặc dù tràn dịch màng ngoài tim (PE) sớm sau khi đặt van động mạch chủ qua da (TAVI) đã được báo cáo trong một vài đăng ký, nhưng PE muộn trong quá trình theo dõi vẫn chưa được khám phá. Đặc biệt, sau TAVI qua ngả ngực, việc chẩn đoán PE bằng siêu âm tim qua thành ngực (TTE) có thể gặp nhiều khó khăn. Đánh giá hiện tại đã khảo sát tỷ lệ mắc PE sớm sau TAVI và tại thời điểm theo dõi 1 tháng bằng TTE và chụp cắt lớp vi tính nhiều dãy (MDCT). Sự đồng thuận giữa TTE và MDCT trong việc chẩn đoán sự hiện diện và mức độ của PE vào 1 tháng theo dõi đã được đánh giá. Tổng cộng có 293 bệnh nhân trải qua TAVI đã được bao gồm. TTE trước khi xuất viện đã được thực hiện cho tất cả bệnh nhân. Vào 1 tháng, siêu âm tim lại được thực hiện trên 234 bệnh nhân và đánh giá bổ sung bằng MDCT trên 143 bệnh nhân. Tràn dịch nhỏ và vừa đã được quan sát ở 74,1% và 4,1% bệnh nhân trước khi xuất viện, trong khi tràn dịch lớn được chẩn đoán ở 8 (2,7%) bệnh nhân mà không có sự khác biệt giữa các cách tiếp cận thủ thuật: 1,6% so với 3,6% cho đường hạ đùi và đường ngực tương ứng, p = 0,474. Vào 1 tháng, có 6 (2,5%) bệnh nhân mới xuất hiện tràn dịch mức độ vừa, tất cả đều trải qua TAVI qua ngả ngực. MDCT và TTE không đồng thuận về mức độ của PE ở 38 bệnh nhân. Quan trọng là, một bệnh nhân có PE nhỏ trên TTE lại được coi là có PE vừa và hai bệnh nhân có PE nhỏ và vừa được coi là có PE lớn. Ngoài ra, hai bệnh nhân có PE vừa trên siêu âm tim lại được coi là PE nhỏ trên MDCT. Kết luận, PE lớn sớm sau TAVI là hiếm. Tỷ lệ PE nhỏ và vừa vẫn ổn định trong theo dõi 1 tháng. MDCT cải thiện chẩn đoán PE lớn.
#tràn dịch màng ngoài tim #đặt van động mạch chủ qua da #siêu âm tim #chụp cắt lớp vi tính #tiêu chí chẩn đoán PE
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2